Alipius là một người trong nhóm bạn khoảng 10 người, cùng đến Milan học luật. Tôi gặp anh tại Roma và anh theo tôi lên Milan. Tôi kính phục...
Alipius là một người trong nhóm bạn khoảng 10 người, cùng đến Milan học luật. Tôi gặp anh tại Roma và anh theo tôi lên Milan. Tôi kính phục nhiều đức tính của anh nhưng nhất là tôi cảm phục sự lương thiện ngay thẳng. Lúc đó trong triều đình hay có chuyện hối lộ khi anh làm lục sự cho một thẩm phán và áp lực thật mãnh liệt. Tuy nhiên anh luôn không nhận hối lộ. Và ngay tại Roma anh còn làm cho một ông nghị tức giận điên người muốn cho anh tiền trong một vụ rắc rối pháp luật. Khi Alipius từ chối, ông muốn điên lên. Ông đe dọa nhưng anh vẫn chống đối. Rồi ông tìm cách cho ông chánh án trong phiên tòa anh là luật sư. Nhưng Alipius đe dọa sẽ bỏ phiên tòa và nói lý do tại sao, nếu ông chánh án xử cho ông nghị được kiện. Ông chánh án phải xử cho ông ta thua theo như luật pháp đòi hỏi nhưng ông đổ tội cho Alipius, nhưng anh vẫn hề bối rối dù bị tai hại cho nghề nghiệp.
Tuy nhiên để cho có uy tín anh phải theo cám dỗ không lương thiện trong một vụ án lớn hơn. Anh thích sách vở và sự học hỏi và khi anh có dịp mua những bản văn ăn cắp với giá rẻ, lúc đầu anh muốn chấp nhận. Lúc đó ai cũng thế.
Nhưng khi nghĩ lại, như thói quen, anh quyết định không nhượng bộ những nguyên tắc đã đặt ra về vấn đề như thế. Ðây chỉ là gương mẫu theo lời nói của Chúa Giêsu "ai trung thành trong việc nhỏ thì cũng trung thành trong việc lớn lao" Thực ra không có sự vô lương nào lớn cả và Alipius biế điều ấy hơn bất cứ người nào trong chúng ta. Tuy thế anh thẳng thắn trong những vấn đề luân lý thì lại do dự trong vấn đề quan trọng nhất. Ðâu là nguyên lý hướng dẫn cuộc đời anh? Về vấn đề này anh cũng ở trong tình trạng như tôi và cả nhóm bạn nhỏ bé đó. Chúng tôi nói mình luôn tìm kiếm không mệt mỏi chân lý và sự khôn ngoan nhưng hình như không bao giờ chúng tôi tìm thấy.
Ba chúng tôi, nhân vật thứ ba là Nebridius, tôi phải nói là làm ra vẻ tìm kiếm. Chúng tôi thở dài, hỏi lòng mình, luôn hỏi nhau, tranh luận cho đến khuya, luôn chờ đợi lúc nào đó có tia sáng nào làm cho mọi chuyện được sáng suốt.
Cuộc sống xã hội và thế tục của chúng tôi vẫn tiếp tục. Dù sao chúng tôi là người thế tục. Tôi có người yêu và họ cũng có những khoái lạc. Tuy nhiên những điều đó không làm cho chúng tôi thích thú gì. Chúng tôi chỉ được những chua cay và những gì chúng tôi thấy chỉ là bóng tối dầy đặc.
Chúng tôi thất vọng hỏi nhau: "Cuộc sống cứ như thế này mãi sao?" Không bao giờ chúng tôi thôi làm những chuyện mâu thuẫn với việc tìm kiếm chân lý hay có liên hệ giữa nếp sống hiện tại và sự kiện là cuộc sống đích thực mà chúng tôi nói mình ao ước không bao giờ thực sự xảy ra.
Về phần tôi, tôi bắt đầu thất vọng vì không bao giờ tìm ra câu giải đáp. Tôi tìm kiếm từ năm 19 tuổi và bây giờ gần 30 vẫn chưa tới gần chân lý. Tôi lại còn lý luận về tình trạng đó với mình. Tôi muốn nói: "Ngày mai chân lý sẽ tỏ hiện và tôi sẽ chấp nhận". Hay "Faustus lãnh tụ phái Manichee sẽ đến Milan và ông sẽ giải đáp thắc mắc cho tôi". Hay theo kiểu thất vọng hơn, "Có phải không có gì chắc chắn như nhiều nhà trí thức lý luận trong vấn đề này và việc tìm kiếm là vô ích chăng?" Hay có vẻ hi vọng hơn tôi lý luận: "Tôi biết tôi sẽ làm gì. Tôi đã thấy kinh thánh dạy là không vô lý. Tôi đã dấn thân học đạo. Chắc chắn tôi sẽ đi trên con đường cha mẹ tôi đi khi nào chân lý sáng tỏ cho tôi".
Nhưng tôi hành động trái ngược lại cả những thiện ý đó. Như nhiều người tôi thích hỏi, và đặt mình vào tư thế của người tìm kiếm, nhưng tôi lại không dành cho công việc đó thời gian và sự cố gắng cần thiết. Chẳng hạn tôi định dành ban sáng cho việc dậy học và ban chiều dành cho việc tìm hiểu chân lý siêu nhiên. Tốt lắm. Nhưng tôi lại bắt đầu hỏi mình "khi nào tôi có giờ cho bạn tôi" hay "khi nào tôi soạn bài?" hay "khi nào tôi giải trí?"
Trong những lúc thức tỉnh tôi biết những chuyện ấy đưa tôi đến đâu nhưng tôi bất lực không thể thay đổi. Tôi biết giờ chết không biết đến lúc nào đối với tôi cũng như cho mọi người và biết trễ nải hay trì hoãn việc tìm kiếm chân lý bằng những lý do vô lý như hội họp, giải trí hay cả việc dọn bài học cũng là ngu dại. Khoa luận lý thôi cũng nói cho tôi hay rằng ưu tiên số một phải dành cho việc tìm Chúa và cuộc sống vĩnh cửu trước khi làm những công việc phụ thuộc khác.
Nhưng khoa luận lại không làm như thế. Nó cho tôi hay là tham vọng là đáng tôn trọng. Chẳng hạn làm tổng đốc sẽ mang lại khoái lạc và thoả mãn. Lấy vợ giàu sẽ giải quyết hai vấn đề trong cuộc đời là khoái lạc và tiền bạc. Tôi nghĩ tôi chỉ ao ước thế thôi. Khi đạt tới rồi tôi sẽ tìm kiếm sự thực.
Trong lúc tôi lý luận này nọ với chính mình và bạn bè, thời gian lặng lẽ trôi qua. Bây giờ tôi có thể thấy rằng dù tôi rất muốn hạnh phúc và đầy đủ, tôi sợ đi kiếm cuộc sống hạnh phúc trong một nơi có thể tìm thấy và tận đáy lòng tôi tôi cũng biết. Như thế tôi trốn tránh sự thực dù cho tôi cho rằng đang tìm nó. Tôi chỉ không thấy rằng vấn đề trí thức chỉ là vấn đề luân lý trá hình.
Chính Alipius chống đối việc tôi lấy vợ nhất. Tôi đã sống với một người phụ nữ trong nhiều năm và cảm thấy thà bỏ sự vô luân bước vào hơn nhân để có thể giữ tư thế người tìm kiếm chân lý, không phải với cô ta, như Chúa biết, nhưng với một cô nào có địa vị hơn. Anh lý luận rằng anh cũng thử tình dục trong quá khứ và không thấy hạnh phúc gì, và trong bất cứ trường hợp nào thì người vợ cũng ngăn cản ta tìm chân lý. Anh đã sống cuộc sống rất trong sạch.
Tuy nhiên tôi cãi lại anh và cho rằng nhiều người khôn ngoan nhất cũng đã lập gia đình. Hình như điều ấy không ngăn cản họ tìm chân lý cũng không cách ly họ xa Chúa. Không những thế mà vấn đề khoái lạc tình dục không thể chỉ kinh nghiệm cách hời hợt trong những liên hệ mau qua hời hợt như anh đã có, nhưng sẽ có giá trị khi là liên hệ lâu bền như tôi đã có và còn hơn nữa nếu có tình trạng hôn nhân (như tôi định có). Trước những lý luận đó ngay cả Alipius cũng gần xiêu lòng.
Thế là việc tìm vợ cho tôi bắt đầu và mẹ tôi hoàn toàn giúp đỡ khuyến khích. Bà lo lôi kếo tôi ra khỏi cuộc sống tội lỗi mà bà cho là tôi đang có, và bà cũng hi vọng khi tôi lấy vợ tôi sẽ lãnh bí tích rửa tội.
Nhưng có một điều kỳ lạ trong thái độ của mẹ tôi về vấn đề này. Bà thường cầu xin Chúa soi sáng cho bà theo ý Chúa trong những thị kiến phải làm điều này hay điều kia (và bà thường được như ý cách này hay cách khác) Nhưng trong cuộc hôn nhân của tôi dù cho bà cầu nguyện cho việc ấy ngày cũng như đêm, Chúa không soi sáng gì cho bà cả. Bà cũng có đôi chút tưởng tượng về cô vợ tương lai của tôi nhưng trống rỗng và phỉnh gạt mình, nhưng bà biết đó không phải là thị kiến Chúa ban.
Công việc tiến triển. Hỏi một cô và cô ta chịu. Cô ta rất thích hợp trong mọi sự và tôi cũng thích cô ta lắm nhưng còn hai năm nữa cô mới đến tuổi cập kê. Tôi không còn cách nào khác đành chờ đợi thôi. Nhưng tôi đã không làm gì, Nhóm bạn của tôi đã hoạch định chương trình sống chung như một cộng đồng, để có thể tìm chân lý. Nhưng vấn đề vợ con, nhiều người đã có vợ, và tôi dĩ nhiên sắp cưới vợ, đã làm sứt mẻ tình huynh đệ và chương trình đổ vỡ.
Khi chuyện đó xảy ra thì tôi trải qua một kinh nghiệm đau đớn. Nếu tôi lấy vợ danh giá thì tôi phải bỏ người tình. Khi giải thích điều đó cho nàng thì nàng rất khó chịu. Nàng không thể tin rằng tôi nhẫn tâm để nàng ra đi. Nàng cản thấy tôi đã xử tệ với nàng (như tôi đã làm) và thề sẽ không bao giờ biết đến đàn ông nữa Nàng trở về Phi châu để lại thằng con nhỏ tuổi ở lại với tôi ở Milan.
Tôi cũng cảm thấy bị thương tổn sâu xa nhưng phản ứng của tôi hoàn toàn trái ngược. Thấy còn những hai năm nữa mới lấy vợ và không thể tưởng tượng có thể giữ mình trong hai năm đó nên tôi kiếm cô bồ khác. Ðây là một kinh nghiệm đớn đau như những cố gắng khác trong thời gian đó, đi tìm khoái lạc xa cách Thiên Chúa. Nỗi đau xa cách người tình cũ mà tôi còn yêu càng ngày càng mãnh liệt chứ không yếu đi. Ðây là nỗi đau đớn tái tê chó má làm cho hỏng mất mọi mưu toan muốn thay thế nàng bằng những liên hệ khác.
Tuy nhiên để cho có uy tín anh phải theo cám dỗ không lương thiện trong một vụ án lớn hơn. Anh thích sách vở và sự học hỏi và khi anh có dịp mua những bản văn ăn cắp với giá rẻ, lúc đầu anh muốn chấp nhận. Lúc đó ai cũng thế.
Nhưng khi nghĩ lại, như thói quen, anh quyết định không nhượng bộ những nguyên tắc đã đặt ra về vấn đề như thế. Ðây chỉ là gương mẫu theo lời nói của Chúa Giêsu "ai trung thành trong việc nhỏ thì cũng trung thành trong việc lớn lao" Thực ra không có sự vô lương nào lớn cả và Alipius biế điều ấy hơn bất cứ người nào trong chúng ta. Tuy thế anh thẳng thắn trong những vấn đề luân lý thì lại do dự trong vấn đề quan trọng nhất. Ðâu là nguyên lý hướng dẫn cuộc đời anh? Về vấn đề này anh cũng ở trong tình trạng như tôi và cả nhóm bạn nhỏ bé đó. Chúng tôi nói mình luôn tìm kiếm không mệt mỏi chân lý và sự khôn ngoan nhưng hình như không bao giờ chúng tôi tìm thấy.
Ba chúng tôi, nhân vật thứ ba là Nebridius, tôi phải nói là làm ra vẻ tìm kiếm. Chúng tôi thở dài, hỏi lòng mình, luôn hỏi nhau, tranh luận cho đến khuya, luôn chờ đợi lúc nào đó có tia sáng nào làm cho mọi chuyện được sáng suốt.
Cuộc sống xã hội và thế tục của chúng tôi vẫn tiếp tục. Dù sao chúng tôi là người thế tục. Tôi có người yêu và họ cũng có những khoái lạc. Tuy nhiên những điều đó không làm cho chúng tôi thích thú gì. Chúng tôi chỉ được những chua cay và những gì chúng tôi thấy chỉ là bóng tối dầy đặc.
Chúng tôi thất vọng hỏi nhau: "Cuộc sống cứ như thế này mãi sao?" Không bao giờ chúng tôi thôi làm những chuyện mâu thuẫn với việc tìm kiếm chân lý hay có liên hệ giữa nếp sống hiện tại và sự kiện là cuộc sống đích thực mà chúng tôi nói mình ao ước không bao giờ thực sự xảy ra.
Về phần tôi, tôi bắt đầu thất vọng vì không bao giờ tìm ra câu giải đáp. Tôi tìm kiếm từ năm 19 tuổi và bây giờ gần 30 vẫn chưa tới gần chân lý. Tôi lại còn lý luận về tình trạng đó với mình. Tôi muốn nói: "Ngày mai chân lý sẽ tỏ hiện và tôi sẽ chấp nhận". Hay "Faustus lãnh tụ phái Manichee sẽ đến Milan và ông sẽ giải đáp thắc mắc cho tôi". Hay theo kiểu thất vọng hơn, "Có phải không có gì chắc chắn như nhiều nhà trí thức lý luận trong vấn đề này và việc tìm kiếm là vô ích chăng?" Hay có vẻ hi vọng hơn tôi lý luận: "Tôi biết tôi sẽ làm gì. Tôi đã thấy kinh thánh dạy là không vô lý. Tôi đã dấn thân học đạo. Chắc chắn tôi sẽ đi trên con đường cha mẹ tôi đi khi nào chân lý sáng tỏ cho tôi".
Nhưng tôi hành động trái ngược lại cả những thiện ý đó. Như nhiều người tôi thích hỏi, và đặt mình vào tư thế của người tìm kiếm, nhưng tôi lại không dành cho công việc đó thời gian và sự cố gắng cần thiết. Chẳng hạn tôi định dành ban sáng cho việc dậy học và ban chiều dành cho việc tìm hiểu chân lý siêu nhiên. Tốt lắm. Nhưng tôi lại bắt đầu hỏi mình "khi nào tôi có giờ cho bạn tôi" hay "khi nào tôi soạn bài?" hay "khi nào tôi giải trí?"
Trong những lúc thức tỉnh tôi biết những chuyện ấy đưa tôi đến đâu nhưng tôi bất lực không thể thay đổi. Tôi biết giờ chết không biết đến lúc nào đối với tôi cũng như cho mọi người và biết trễ nải hay trì hoãn việc tìm kiếm chân lý bằng những lý do vô lý như hội họp, giải trí hay cả việc dọn bài học cũng là ngu dại. Khoa luận lý thôi cũng nói cho tôi hay rằng ưu tiên số một phải dành cho việc tìm Chúa và cuộc sống vĩnh cửu trước khi làm những công việc phụ thuộc khác.
Nhưng khoa luận lại không làm như thế. Nó cho tôi hay là tham vọng là đáng tôn trọng. Chẳng hạn làm tổng đốc sẽ mang lại khoái lạc và thoả mãn. Lấy vợ giàu sẽ giải quyết hai vấn đề trong cuộc đời là khoái lạc và tiền bạc. Tôi nghĩ tôi chỉ ao ước thế thôi. Khi đạt tới rồi tôi sẽ tìm kiếm sự thực.
Trong lúc tôi lý luận này nọ với chính mình và bạn bè, thời gian lặng lẽ trôi qua. Bây giờ tôi có thể thấy rằng dù tôi rất muốn hạnh phúc và đầy đủ, tôi sợ đi kiếm cuộc sống hạnh phúc trong một nơi có thể tìm thấy và tận đáy lòng tôi tôi cũng biết. Như thế tôi trốn tránh sự thực dù cho tôi cho rằng đang tìm nó. Tôi chỉ không thấy rằng vấn đề trí thức chỉ là vấn đề luân lý trá hình.
Chính Alipius chống đối việc tôi lấy vợ nhất. Tôi đã sống với một người phụ nữ trong nhiều năm và cảm thấy thà bỏ sự vô luân bước vào hơn nhân để có thể giữ tư thế người tìm kiếm chân lý, không phải với cô ta, như Chúa biết, nhưng với một cô nào có địa vị hơn. Anh lý luận rằng anh cũng thử tình dục trong quá khứ và không thấy hạnh phúc gì, và trong bất cứ trường hợp nào thì người vợ cũng ngăn cản ta tìm chân lý. Anh đã sống cuộc sống rất trong sạch.
Tuy nhiên tôi cãi lại anh và cho rằng nhiều người khôn ngoan nhất cũng đã lập gia đình. Hình như điều ấy không ngăn cản họ tìm chân lý cũng không cách ly họ xa Chúa. Không những thế mà vấn đề khoái lạc tình dục không thể chỉ kinh nghiệm cách hời hợt trong những liên hệ mau qua hời hợt như anh đã có, nhưng sẽ có giá trị khi là liên hệ lâu bền như tôi đã có và còn hơn nữa nếu có tình trạng hôn nhân (như tôi định có). Trước những lý luận đó ngay cả Alipius cũng gần xiêu lòng.
Thế là việc tìm vợ cho tôi bắt đầu và mẹ tôi hoàn toàn giúp đỡ khuyến khích. Bà lo lôi kếo tôi ra khỏi cuộc sống tội lỗi mà bà cho là tôi đang có, và bà cũng hi vọng khi tôi lấy vợ tôi sẽ lãnh bí tích rửa tội.
Nhưng có một điều kỳ lạ trong thái độ của mẹ tôi về vấn đề này. Bà thường cầu xin Chúa soi sáng cho bà theo ý Chúa trong những thị kiến phải làm điều này hay điều kia (và bà thường được như ý cách này hay cách khác) Nhưng trong cuộc hôn nhân của tôi dù cho bà cầu nguyện cho việc ấy ngày cũng như đêm, Chúa không soi sáng gì cho bà cả. Bà cũng có đôi chút tưởng tượng về cô vợ tương lai của tôi nhưng trống rỗng và phỉnh gạt mình, nhưng bà biết đó không phải là thị kiến Chúa ban.
Công việc tiến triển. Hỏi một cô và cô ta chịu. Cô ta rất thích hợp trong mọi sự và tôi cũng thích cô ta lắm nhưng còn hai năm nữa cô mới đến tuổi cập kê. Tôi không còn cách nào khác đành chờ đợi thôi. Nhưng tôi đã không làm gì, Nhóm bạn của tôi đã hoạch định chương trình sống chung như một cộng đồng, để có thể tìm chân lý. Nhưng vấn đề vợ con, nhiều người đã có vợ, và tôi dĩ nhiên sắp cưới vợ, đã làm sứt mẻ tình huynh đệ và chương trình đổ vỡ.
Khi chuyện đó xảy ra thì tôi trải qua một kinh nghiệm đau đớn. Nếu tôi lấy vợ danh giá thì tôi phải bỏ người tình. Khi giải thích điều đó cho nàng thì nàng rất khó chịu. Nàng không thể tin rằng tôi nhẫn tâm để nàng ra đi. Nàng cản thấy tôi đã xử tệ với nàng (như tôi đã làm) và thề sẽ không bao giờ biết đến đàn ông nữa Nàng trở về Phi châu để lại thằng con nhỏ tuổi ở lại với tôi ở Milan.
Tôi cũng cảm thấy bị thương tổn sâu xa nhưng phản ứng của tôi hoàn toàn trái ngược. Thấy còn những hai năm nữa mới lấy vợ và không thể tưởng tượng có thể giữ mình trong hai năm đó nên tôi kiếm cô bồ khác. Ðây là một kinh nghiệm đớn đau như những cố gắng khác trong thời gian đó, đi tìm khoái lạc xa cách Thiên Chúa. Nỗi đau xa cách người tình cũ mà tôi còn yêu càng ngày càng mãnh liệt chứ không yếu đi. Ðây là nỗi đau đớn tái tê chó má làm cho hỏng mất mọi mưu toan muốn thay thế nàng bằng những liên hệ khác.
Không có nhận xét nào